Điều kiện tự nhiên

Vị trí

KBT loài Sao la Quảng Nam nằm ở tọa độ địa lý: 17056’57’’ đến 18005’25’’ Vĩ độ Bắc và 105051’07’’ đến 106004’36’’ Kinh độ Đông.

Khu vực quy hoạch KBT loài Sao la nằm về phía Tây của tỉnh Quảng Nam, trên địa giới hành chính của các xã: Bhalêê và A vương (huyện Tây Giang), xã Tà lu và Sông Kôn (huyện Đông Giang).

– Ranh giới phía Bắc: Là ranh giới giữa tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên Huế. KBT tiếp giáp với phần diện tích mở rộng của VQG Bạch Mã.
– Ranh giới phía Đông: Là đường ranh giới giữa 2 xã ATing và Sông Kôn huyện Đông Giang, là vùng ranh giới giữa các tiểu khu 43 và 56 thuộc tỉnh Quảng Nam.
– Ranh giới phía Tây: Phần phía Tây Bắc là ranh giới 2 tỉnh Quảng Nam (xã Bahlêê, AVương huyện Tây Giang; xã Tà Lu, Sông Kôn huyện Đông Giang) và Thừa Thiên Huế (xã Aroàng, Hương Nguyên huyện ALưới; xã Nam Hòa huyện Nam Đông), phần còn lại là ranh giới Quốc gia giữa 2 nước Việt Nam và Lào (thuộc xã Bhalêê huyện Tây Giang).
– Ranh giới phía Nam: Từ Đông sang Tây bắt đầu tại điểm ngã 3 ranh giới hai xã Sông Kôn và xã A Ting, từ ranh giới tiểu khu 43 với tiểu khu 57, chạy theo hướng Tây Nam theo khoảnh 4 và 5 của tiểu khu 43 . Khi chạy tới ranh giới của tiểu khu 47 thì chạy ngược lên hướng Tây Bắc, gặp ranh giới khoảnh 1 của tiểu khu 47 thì tiếp tục chạy về hướng Tây Nam theo ranh giới khoảnh này, sau đó theo ranh giới khoảnh 3 đến đỉnh cao 769m, rồi theo ranh giới phía Nam của tiểu khu 37 đến ranh giới tiểu khu 39, lấy một phần khoảnh 3, toàn bộ khoảnh 1 và 2 của tiểu khu 39. Ranh giới tiếp tục chạy theo ranh giới phía Nam của tiểu khu 34, cắt sang và ôm lấy toàn bộ khoảnh 1, 2, 3 và 4 của tiểu khu 38. Từ đó, chạy ngược lên phía Bắc, ôm lấy khoảnh 2 và 3 của tiểu khu 26, tới đỉnh cao 1.028m, theo dông núi chạy xuống ngã ba suối Tam Ya Vour, tiếp tục theo khe đi ngược lên phía Bắc, gặp một dãy dông chạy ngang thì cắt khoảnh 5, 6 và 7 của tiểu khu 23 theo hướng Tây tới suối Za Vua, tiếp tục chạy theo hướng Tây của suối này tới tiểu khu 24 thì lấy khoảnh 1, 2, 3 và 4 của tiểu khu này, tiếp tục sang hướng Tây lấy khoảnh 1 của tiểu khu 26, khoảnh 1 của tiểu khu 16, chạy theo hướng Tây Bắc trên đỉnh dông tới điểm cao 982m, rồi tiếp tục chạy theo dông cắt tiểu khu 14 tới đường Hồ Chí Minh thì ngoặt theo hướng Tây Nam, tới gặp ranh giới xã A Nông thì theo ranh giới xã hướng lên Tây Bắc đến biên giới Việt Lào.

Địa hình

Địa hình KBT loài Sao la hầu hết là núi cao trung bình, nổi trội bởi dãy núi chạy theo hướng từ Tây sang Đông và từ Bắc xuống Nam, với đỉnh cao nhất là 1.446m nằm trên ranh giới giữa hai tỉnh Quảng Nam và Thừa Thiên Huế, còn lại các đỉnh khác cao trên dưới 1.000 m. Do sự phức tạp trong quá trình kiến tạo địa hình nên khu vực có địa hình rất dốc, gồ ghề (độ dốc từ 15 – 400). Phía Bắc và Đông Bắc dốc mạnh, phía Tây Nam ít dốc hơn. Độ chia cắt sâu rất lớn, đặc biệt là ở phía Bắc và Đông Bắc (300 – 500m); mức độ chia cắt ở phía Tây Nam yếu hơn (100 – 300m), các thung lũng thường hẹp và gần như không có, thay vào đó là các lòng suối hẹp dốc, nhiều thác ghềnh.

Khí hậu

Khu bảo tồn nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa thuộc tiểu vùng chuyển tiếp giữa vùng Bắc và Nam dãy Trường Sơn, nóng ẩm mưa nhiều theo mùa. Tuy trong năm bắt đầu có sự phân chia thành hai mùa khô và mưa như ở khu Nam Trường Sơn nhưng chưa thực sự điển hình. Mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 dương lịch năm sau và mùa khô từ tháng 3 đến tháng 8 dương lịch. Do chịu ảnh hưởng của khí hậu Bắc Hải Vân và không khí lạnh từ dãy Bạch Mã (Thừa Thiên Huế) và núi Bà Nà (Quảng Nam) nên thời tiết ở khu vực thường có rét lạnh kéo dài. Cụ thể các đặc trưng về khí hậu khu vực như sau:
– Chế độ nhiệt: Nhiệt độ trung bình năm 23,50C, cao nhất là 380C, thấp nhất là 80C. Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6 và tháng 7; tháng có nhiệt độ thấp nhất vào tháng 12. Biên độ nhiệt/năm khoảng từ 5 – 7%.
– Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm ở khu vực này thuộc loại lớn nhất so với khu vực khác trong tỉnh Quảng Nam (chỉ sau khu vực Trà My). Tổng lượng mưa bình quân/năm phổ biến từ 2.000 – 2.500mm, có khi lên đến 4.000mm. Lượng mưa phân bố không đều trong năm, hàng năm có từ 4 – 5 tháng có lượng mưa < 100mm, lượng mưa ít nhất xảy ra vào tháng 6 và nhiều nhất tập trung vào tháng 10, 11 dương lịch.
– Chế độ ẩm: Độ ẩm không khí liên quan đến chế độ nhiệt và mưa như trên. Độ ẩm trung bình hằng năm trong khu vực khoảng 86%, trong các tháng mùa mưa thì cũng chỉ đạt khoảng 93% (tháng 9 đến tháng 3 năm sau), trong các tháng mùa khô có độ ẩm khoảng 83% (từ tháng 4 đến tháng 8).
– Chế độ gió: Gió thịnh hành theo hai hướng chính là gió mùa Đông Bắc và gió Tây Nam. Gió mùa Đông Bắc: trong mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 2 năm sau, gió mùa Đông Bắc xuất hiện, thời tiết lạnh và kèm theo mưa lớn. Gió Tây Nam: trong mùa khô từ giữa tháng 6 đến cuối tháng 7 dương lịch thường xuất hiện những đợt gió mùa Tây Nam (gió Lào), thời tiết khô hanh và nóng.
Ngoài ra, trong năm thường xuất hiện bão từ tháng 9 đến tháng 12, tốc độ gió có khi đạt hơn 30m/s. Lũ lụt xuất hiện từ tháng 9 đến tháng 11 dương lịch thường kèm theo các đợt gió mùa Đông Bắc.

Thủy văn

Với địa hình khu vực hầu hết là núi cao trung bình, độ dốc lớn và bị chia cắt thành nhiều vùng, đã hình thành nên hệ thống thủy văn sông suối lớn nhỏ với mật độ sông suối biến động từ 0,5 – 1 km/km2 như: Sông Kôn, Sông A Vương, Sông A Bốc, Suối Kanin, Suối Za Vua, Suối Bruah, Suối R’Lai, Suối B’Nơ,…
Đặc điểm các hệ thủy đều có lòng hẹp, trắc diện trẻ, độ dốc cao, vì vậy tác dụng xâm thực còn rất lớn. Trong mùa mưa thường xuyên xuất hiện những trận lũ lớn rất đột ngột và hung dữ, gây nên hiện tượng lở bờ sông suối, sụt đất hai bên đường giao thông, phá hỏng các công trình thủy lợi cũng như cầu cống. Mùa khô các dòng suối trong khu vực bị cạn dần; việc tưới tiêu cho các vùng đất thấp gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, lớp thảm rừng còn tốt và có diện tích lớn, độ dày tầng phong hóa khá dày, nên khả năng trữ nước ngầm khá cao. Trong mùa khô các dòng sông suối chính vẫn duy trì dòng chảy của chúng và các dòng sông phía hạ lưu có nước chảy quanh năm.

Địa chất và thổ nhưỡng

Địa chất

Nền địa chất khu nằm trong tiểu vùng chuyển tiếp giữa Trường Sơn Bắc và Trường Sơn Nam thuộc địa đới Kon Tum. Chúng được hình thành trong giai đoạn cổ kiến tạo, thuộc Đại trung sinh, có tuổi địa chất cách đây trên 500 triệu năm trở về trước, được cấu tạo chủ yếu trên nền địa chất vững chắc của các thành tạo biến chất tạo móng kết tinh vỏ lục địa, gồm các đá biến chất của các đá trầm tích phun trào nguyên sinh có tuổi Ackêôzôi – Ocđôvic sớm.
Trải qua các thời kỳ kiến tạo quan trọng và các pha chuyển động đứt gãy, khối tảng và uốn nếp đã liên tục tạo ra các dãy núi trùng điệp do chuyển động nâng cao và các bồn trầm tích do chuyển động sụt lún, đóng vai trò như nguyên nhân của mọi nguyên nhân để tạo ra tính đa dạng về địa chất, địa hình – địa mạo, mạng lưới thủy văn và tính đa dạng trong khu vực.

Thổ nhưỡng

Trên cơ sở nền đá mẹ và trải qua quá trình biến đổi sâu sắc và liên tục tầng mặt của đá dưới tác dụng chủ yếu của sinh vật và nhiều yếu tố tự nhiên khác đã tạo ra các loại đất chính trong khu vực như sau:
a) Đất Feralit mùn vàng đỏ trên núi (Humic Acrisols):
Đặc điểm: Loại đất này chiếm khoảng 42% tổng diện tích tự nhiên, được hình thành chủ yếu trên đá macma axit và phân bố ở độ cao tuyệt đối từ 900m trở lên, độ dốc từ 15 – 25°, có nơi trên 300. Do nằm ở địa hình cao, dốc nên dễ bị xói mòn, Ca2+, Mg2+ bị rửa trôi mạnh, đất có phản ứng chua, độ no bazơ thấp (50%), độ chua thủy phân cao.
b) Đất Feralit đỏ vàng trên đá sét và đá biến chất: (Ferralic Acrisols)
Đặc điểm: Đất này được phát sinh từ các loại đá phiến sa thạch, phiến thạch sét, phiến mica, gơnai,…và phân bố ở độ cao tuyệt đối từ 900m trở xuống và tập trung nhiều ở xã: Bhalêê, A Vương và một phần ở xã: Tà Lu và Sông Kôn. Loại đất này có diện tích khoảng 36% tổng diện tích tự nhiên, tầng đất dày trên 1,5 m, thành phần cơ giới trung bình và nặng.
c) Đất Feralit đỏ vàng trên đá macma axit: (Ferralic Acrisols)
Đặc điểm: Đá mẹ hình thành đất chủ yếu là granit, riolit, pecmatit,… là những loại đá giàu SiO2 nên đã hình thành nên loại đất có thành phần cơ giới nhẹ, thường có kết cấu kém, tầng đất trung bình (thường nhỏ hơn 1,2 m), tỷ lệ đá lẫn ít. Loại đất này có diện tích khoảng 15% tổng diện tích tự nhiên, phân bố từ độ cao < 900m và chủ yếu ở những nơi có địa hình dốc > 150, nên thường bị xói mòn mạnh ở những nơi không còn rừng.
d) Đất phù sa ngòi suối (Dystric Fluvisols):
Đặc điểm: Loại đất này chiếm diện tích rất nhỏ trong khu vực (khoảng 4%), phân bố tập trung nhiều ở xã: Bhalêê, A Vương, Sông Kôn. Đất hình thành do sự lắng đọng của phù sa sông suối lớn trong khu vực, nên thành phần cơ giới thường thô, nhẹ lẫn nhiều khoáng vật nguyên sinh bền. Độ phì nhiêu tự nhiên tùy từng nơi mà rất khác nhau, nhưng nói chung đất có phản ứng chua đến rất chua, hàm lượng mùn trung bình, đạm tổng số khá, lân và kali nghèo, tầng đất dày từ 70 – 80cm.
e) Các loại đất khác:
Ngoài ra, trong khu vực còn có một số loại đất khác với diện tích nhỏ phân tán trong khu vực như: đất thung lũng dốc tụ (Dystric Gleysols), đất nâu vàng trên phù sa cổ (Ferralic Acrisols), đất mặt nước. Các loại đất này chiếm khoảng 2% tổng diện tích tự nhiên của KBT.

Kinh tế xã hội

1. Dân số, dân tộc, lao động

1.1 Dân số

Trong ranh giới KBT không có dân cư sinh sống. Tổng dân số trong vùng đệm có 10.294 người, thuộc 6 xã, 43 thôn và 2.647 hộ. Trung bình mỗi hộ có từ 4 – 5 người và phần lớn có 3 thế hệ trong một hộ gia đình, rất ít các đôi vợ chồng trẻ mới cưới tách ra ở riêng. Tỉ lệ tăng dân số trung bình trong vùng khá cao 1,89%. Mật độ dân số trung bình trong vùng thấp 21 người/km2.

Phần lớn các thôn phân bố thành cụm, dọc ven hai bên đường Hồ Chí Minh và quốc lộ 14G. Duy nhất chỉ có thôn Aur của xã A Vương có 22 hộ đã chuyển vào khu kinh tế mới, giáp với ranh giới quy hoạch KBT. Phân bố dân cư không đồng đều giữa các thôn, đông nhất là các thôn A Zốc, xã Bhalêê có 92 hộ, 450 khẩu; thôn Aréc, xã AVương 79 hộ, 429 khẩu; thấp nhất là các thôn ở gần với ranh giới được quy hoạch như: thôn Aur có 97 khẩu, 22 hộ; thôn Đang có 230 khẩu, 41 hộ. Dân số và mật độ dân số các xã vùng đệm KBT loài Sao la Quảng Nam thể hiện ở bảng sau:

Bảng 2: Dân số và mật độ dân số các xã vùng đệm

TT Số thôn Số hộ Số khẩu Mật độ (người/km2)
I Huyện Tây Giang 21 1.055 4.884 18
1 Bhalêê 8 502 2.320 32
2 A Vương 9 394 1.825 12
3 A Nông 4 159 739 13
II Huyện Đông Giang 22 1.592 5.707 24
1 Tà Lu 4 287 935 11
2 Sông Kôn 11 657 2.390 30
3 A Ting 7 648 2.382 31
  Tổng cộng 43 2.647 10.591 20

Nguồn: Báo cáo Kế hoạch quản lý hoạt động KBT loài Sao la, tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2018-2022 và điều tra bổ sung năm 2020

1.2 Dân tộc

Thành phần dân tộc sinh sống ở vùng đệm của KBT chủ yếu là người Cơ Tu (chiếm 91,02%); người Kinh chiếm 8,51 %, họ chủ yếu là các hộ buôn bán, một số ít là giáo viên công tác lâu năm ở đây. Các dân tộc còn lại như: Mường, Thái, Tày, Tà Ôi, Hre chiếm tỉ lệ rất nhỏ (chỉ khoảng 0,47 %), chủ yếu từ nơi khác chuyển đến do lấy vợ, lấy chồng hoặc bố mẹ đi theo con cái.

Bảng 3: Thành phần dân tộc các xã vùng đệm

TT Tổng Chia theo thành phần dân tộc Tỉ lệ tăng dân số %
Kinh Cơ Tu Khác
1 Bhalêê 2.320 157 2.162 1 20,92
2 A Vương 1.825 59 1.759 7 19,93
3 A Nông 739 44 692 3 19,13
4 Tà Lu 889 71 811 7 15,57
5 Sông Kôn 2.268 327 1.926 15 18,13
6 A Ting 2.253 218 2.020 15 19,27
  Tổng cộng 10.294 876 9.370 48 18,83

Nguồn: Báo cáo Kế hoạch quản lý hoạt động KBT loài Sao la, tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2018-2022 và điều tra bổ sung năm 2020

1.3 Lao động

Tổng số lao động trên địa bàn các xã vùng đệm KBT là 6.940 người, trong đó tập trung nhiều nhất ở xã Bhalêê với 1.725 lao động. Ba xã có số lao động tương đối đều nhau là A Vương, Sông Kôn và A Ting với gần 1.400 lao động. Thấp nhất là xã A Nông và Tà Lu khoảng 550 lao động. Tỷ lệ lao động Nam và Nữ trên các xã vùng đệm tương đối đồng đều. Số liệu thống kê về lao động thể hiện ở bảng sau:

Bảng 4: Thống kê lao động trên các xã vùng đệm

STT Tổng Nam Nữ
1 Xã Bhalêê 1.725 880 845
2 Xã A vương 1.328 656 672
3 Xã Anông 550 282 268
4 Xã Tà lu 549 286 263
5 Xã Sông Kôn 1.399 732 667
6 Xã A ting 1.389 724 665
Tổng cộng 6.940 3.560 3.380

Nguồn: Báo cáo Kế hoạch quản lý hoạt động KBT loài Sao la, tỉnh Quảng Nam, giai đoạn 2018-2022 và điều tra bổ sung năm 2020

Nhân lực trong khu vực các xã giáp ranh với KBT tập trung chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp chiếm trên 90% số lao động; còn lại là các ngành nghề khác như thương mại dịch vụ, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng…

Theo kết quả điều tra, hiện còn nhiều lao động thiếu việc làm, đây là nguy cơ tiềm ẩn gây nhiều sức ép lên tài nguyên rừng, làm giảm tính đa dạng sinh học trong KBT do những lao động trên vào rừng khai thác lâm sản làm kế sinh nhai chính.